Phòng gd&đt tp. Buôn ma thuột
trường mầm non hoạ mi
BÀI TUYÊN
TRUYỀN
PHÒNG, CHỐNG BỆNH BẠCH
HẦU TRONG TRƯỜNG MẦM NON
1. Bệnh bạch hầu là gì?
Bệnh bạch hầu
là một bệnh nhiễm trùng, nhiễm độc nguy hiểm do trực khuẩn bạch hầu (Corynebacterium
diphtheria) gây ra. Đây là một bệnh vừa nhiễm trùng vừa nhiễm độc và các tổn
thương nghiêm trọng của bệnh chủ yếu là do ngoại độc tố của vi khuẩn bạch hầu –
tên khoa học là Corynebacterium diphtheria.
2. Nhận biết bệnh bạch hầu
- Các dấu hiệu của bệnh bạch hầu:
Bệnh bạch hầu
thường gặp với những triệu chứng điển hình như sốt nhẹ, đau họng, ho, khàn tiếng,
chán ăn… Sau 2-3 ngày, vi khuẩn bạch hầu sẽ tạo lớp màng giả màu trắng (do các
lớp tế bào bị viêm tạo ra), lớp màng này bám vào trong vòm họng (mặt sau hoặc
hai bên thành họng) – gọi là giả mạc. Giả mạc có màu trắng ngà, xám hoặc đen.
Giả mạc dai, dính, dễ chảy máu. Đây là dấu hiệu quan trọng nhất để phát hiện bệnh.
Bệnh nhân có
thể có dấu hiệu khó thở, khó nuốt. Bệnh có thể qua khỏi hoặc trở nên trầm trọng
và tử vong trong vòng 6-10 ngày. Trường hợp bệnh nặng không có biểu hiện sốt
cao nhưng có dấu hiệu sưng to cổ, khàn tiếng, khó thở, rối loạn nhịp tim, liệt.
Tùy thuộc vào vị trí vi khuẩn gây bệnh, bệnh bạch hầu sẽ có
các biểu hiện khác nhau:
Bệnh bạch
hầu mũi trước: Bệnh nhân sổ mũi, chảy mũi ra chất mủ nhầy đôi khi có lẫn
máu. Khi khám thầy thuốc có thể thấy màng trắng ở vách ngăn mũi. Thể bệnh này
thường nhẹ do độc tố vi khuẩn ít thâm nhập vào máu.
Bệnh bạch hầu
họng và amidan: Bệnh nhân mệt mỏi, đau cổ họng, chán ăn, sốt nhẹ. Sau 2-3
ngày, sẽ xuất hiện một đám hoại tử tạo thành lớp giả mạc màu trắng xanh, dai và
dính chắc vào amiđan, hoặc có thể lan rộng bao phủ cả vùng hầu họng. Thường thể
bệnh này các độc tố ngấm vào máu nhiều và có thể gây tình trạng nhiễm độc toàn
thân. Một số bệnh nhân có thể sưng nề vùng dưới hàm và sưng các hạch vùng cổ
làm cổ bạnh ra như cổ bò. Những trường hợp nhiễm độc nặng bệnh nhân sẽ phờ phạc,
xanh tái, mạch nhanh, đờ đẫn, hôn mê. Các bệnh nhân này nếu không được điều trị
tích cực có thể tử vong trong vòng 6-10 ngày.
Bạch hầu
thanh quản: Đây là thể bệnh tiến triển
nhanh và rất nguy hiểm. Bệnh nhân thường biểu hiện bằng dấu hiệu sốt, khàn tiếng,
ho ông ổng. Khi khám, bác sĩ có thể thấy các giả mạc tại ngay thanh quản hoặc từ
hầu họng lan xuống. Nếu không được xử trí kịp thời, các giả mạc này có thể gây
tắc đường thở làm bệnh nhân suy hô hấp và có nguy cơ tử vong nhanh chóng.
Bạch hầu
các vị trí khác: Thường rất hiếm gặp và nhẹ, vi khuẩn bạch hầu có thể gây
loét ở da, niêm mạc như niêm mạc mắt, âm đạo hay ống tai.
3. Biến chứng của bệnh bạch hầu
Không giống
như các vi khuẩn thông thường khác, vi khuẩn bạch cầu gây ra viêm họng, nóng, sốt
và nguy hiểm là do độc tố của vi khuẩn. Độc tố đó sẽ theo máu và tác động lên
các cơ quan chính của cơ thể, có thể gây ra viêm tim, viêm thận hoặc tác dụng
lên hệ thần kinh làm liệt tay, liệt chân, mắt lé, giọng nói có thể thay đổi do
bị ngọng thanh quản.
a. Biến chứng viêm cơ tim: Người mắc bệnh bạch hầu khi không được phát hiện và điều trị kịp thời để sẽ dẫn đến viêm cơ tim, tổn thương hệ thần kinh dẫn truyền cơ tim, tử vong do đột ngột trụy tim mạch. Biến chứng này có thể xảy ra trong giai đoạn toàn phát của bệnh hoặc cũng có thể xảy ra chậm vài tuần sau khi bệnh đã khỏi. Một số bệnh nhân bị viêm cơ tim và van tim, sau nhiều năm gây ra bệnh tim mãn và suy tim.
b. Biến chứng viêm dây thần kinh: thường ảnh hưởng đến dây thần kinh vận động và thường hồi phục hoàn toàn nếu bệnh nhân không tử vong vì biến chứng khác. Liệt màn khẩu cái (màn hầu) thường xuất hiện vào tuần thứ ba của bệnh. Liệt các dây thần kinh vận nhãn, cơ chi và liệt cơ hoành có thể xảy ra vào tuần thứ năm của bệnh. Viêm phổi và suy hô hấp có thể xuất hiện do hậu quả của liệt cơ hoành.
c. Các biến chứng khác: có thể xảy ra như viêm kết mạc mắt hoặc suy hô hấp do tắc nghẽn đường hô hấp có thể xảy ra ở trẻ em, đặc biệt là nhũ nhi. Ngoài ra, bệnh cũng có thể dẫn đến thoái hóa thận, hoại tử ống thận, chảy máu lớp tủy và vỏ thượng thận.
Tử vong vào
khoảng 5 đến 10% có thể tăng cao đến 20% ở trẻ em dưới 5 tuổi và người lớn trên
40 tuổi. Tỉ lệ tử vong của bệnh bạch hầu dường như không thay đổi trong 50 năm
qua.
4. Các con đường lây truyền của bệnh bạch hầu
Vi khuẩn bạch hầu (Corynebacterium diphtheriae) nhân
lên trên hoặc gần bề mặt của màng nhầy của cổ họng. Bệnh bạch hầu lây truyền trực
tiếp từ người bệnh sang người lành qua đường hô hấp hoặc gián tiếp. Dưới đây là
hai con đường lây truyền chính:
a. Thông qua giọt nước trong không khí: Khi một người bị nhiễm bệnh hắt hơi hoặc ho sẽ phát ra một
giọt nước có chứa mầm bệnh, những người ở gần đó có thể hít phải
Corynebacterium diphtheriae. Bạch hầu lây lan nhanh chóng theo cách này, đặc biệt
ở những nơi đông người.
b. Thông qua vật dụng cá nhân chứa mầm bệnh: Một số trường hợp mắc bệnh bạch hầu từ việc chưa làm sạch
các vật dụng mà người nhiễm bệnh đã sử dụng từ cốc uống nước chưa rửa của người
bị nhiễm bệnh hoặc tiếp xúc với các giấy ăn mà người bệnh đã sử dụng…
Bệnh có thể lây truyền truyền trực tiếp từ người bệnh sang người lành qua đường hô hấp hoặc gián tiếp qua đồ chơi, vật dụng. Vi khuẩn bạch hầu có thể xâm nhập qua da tổn thương gây bạch hầu da. Những người đã bị nhiễm vi khuẩn bạch hầu nhưng chưa được điều trị có thể lây nhiễm cho những người khỏe mạnh trong vòng 6 tuần – ngay cả khi họ không có bất kỳ triệu chứng nào.
5. Những ai dễ mắc bệnh bạch hầu?
Hiện nay, bệnh
bạch hầu chưa được loại trừ ở nước ta, do đó người dân vẫn có thể mắc bệnh nếu
chưa tiêm vắc xin phòng bệnh và tiếp xúc với mầm bệnh. Bộ Y tế đã ban hành
Thông tư số 17/2019/TT-BYT về việc hướng dẫn giám sát đối với 9 loại bệnh, dịch
bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, trong đó có căn bệnh bạch hầu.
Đối tượng dễ
mắc bệnh:
·
Người ở mọi độ tuổi có tiếp
xúc với người bị nhiễm bạch hầu, đi du lịch đến các vùng dịch tễ của bệnh bạch
hầu nhưng chưa được tiêm phòng vắc xin;
·
Đối với trẻ sơ sinh: thường
có miễn dịch thụ động từ mẹ truyền sang con nên không mắc bệnh nhưng miễn dịch
bảo vệ này sẽ mất đi khi trẻ 6 tháng – 1 tuổi nên trẻ sẽ có nguy cơ mắc bệnh nếu
không tiêm vắc xin;
·
Ở trẻ em tuổi dễ mắc bệnh
< 15 tuổi nếu chưa có miễn dịch;
6. Bệnh bạch hầu có chữa được không?
Hiện nay, đã có thuốc để
điều trị bệnh bạch hầu, tuy nhiên, trong giai đoạn tiến triển, bệnh bạch hầu có
thể gây hại cho tim, thận và hệ thần kinh của người bệnh.
Ngay cả khi điều trị, bệnh bạch hầu có thể gây tử vong với tỷ
lệ 3% những người mắc bệnh bạch hầu tử vong, tỷ lệ này còn cao hơn ở trẻ em dưới
15 tuổi.
7. Có bị nhiễm lại sau khi đã tiêm vắc xin hay không?
Sau khi mắc bệnh
sẽ có miễn dịch suốt đời tuy nhiên với những nhóm người suy giảm miễn dịch tỉ lệ
tái nhiễm bệnh khoảng 2 – 5%;
Miễn dịch bảo
vệ sau tiêm vắc xin thường kéo dài khoảng 10 năm, hiệu quả bảo vệ của vắc xin
lên đến 97% nhưng giảm dần theo thời gian, do vậy nếu không tiêm nhắc lại vẫn
có thể mắc bệnh;
8. Cách phòng bệnh bạch hầu
Hiện bệnh bạch
hầu chưa được loại trừ ở nước ta, do đó người dân vẫn có thể mắc bệnh nếu chưa
tiêm vắc xin phòng bệnh đầy đủ và tiếp xúc với mầm bệnh. Để chủ động phòng chống
bệnh bạch hầu, Cục Y tế dự phòng khuyến cáo người dân cần thực hiện tốt các biện
pháp sau:
(1) Đưa trẻ
đi tiêm chủng tiêm vắc xin phối hợp phòng bệnh bạch hầu (ComBe Five hoặc
DPT-VGB-Hib (SII), Td) đủ mũi tiêm và đúng lịch.
(2) Thường
xuyên rửa tay bằng xà phòng; che miệng khi ho hoặc hắt hơi; giữ vệ sinh thân thể,
mũi, họng hàng ngày; hạn chế tiếp xúc với người mắc bệnh hoặc nghi ngờ mắc bệnh.
(3) Đảm bảo nhà ở, nhà trẻ, lớp học
thông thoáng, sạch sẽ và có đủ ánh sáng.
(4) Khi có dấu
hiệu mắc bệnh hoặc nghi ngờ mắc bệnh bạch hầu phải được cách ly và đưa đến cơ sở
y tế để được khám, điều trị kịp thời.
(5) Người dân
trong ổ dịch cần thực hiện nghiêm túc việc uống thuốc phòng và tiêm vắc xin
phòng bệnh theo chỉ định và yêu cầu của cơ quan y tế.
(Nguồn: Cục Y tế dự phòng – Bộ Y Tế)